Thi Hương Khoa_bảng_Việt_Nam

Bài chi tiết: Thi Hương
Dân chúng xem bảng yết danh những người thi đỗ kỳ thi Hương năm 1897

Đại cương

Theo Đào Duy Anh,[67] năm 1397, triều nhà Trần, Hồ Quý Ly lại bắt đầu định phép thi Hương; có trúng tuyển cử nhân mới được dự thi Hội năm sau, ai trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp; gọi là thi Đình.[29]

Nhà Hậu Lê, vua Lê Thái Tổ đánh thắng nhà Minh, vẫn chưa định phép thi Hương, thi Hội, đến đời vua Lê Thái Tông [68] mới hạ chiếu thi khảo trong nước. Kỳ thi này lấy hơn ngàn người trúng tuyển, chia làm ba hạng; hạng nhất, nhì bổ vào Quốc tử giám; hạng ba vào trường ở các đạo để học tập, cho miễn lao dịch.[69]

Đời vua Lê Nhân Tông, hạ lệnh cho nhân dân biết chữ đến thi khảo ở bản đạo, người nào trúng tuyển sẽ đưa đến thi Hội ở bộ Lễ, cho miễn việc tuyển bổ quân ngũ lần này.[69]

Việc định phép thi Hương, thi Hội mới rõ ở thời vua Lê Thánh Tông, cứ 6 năm một lần xét tuyển. Vào năm 1485, triều đình lấy cớ rằng năm trước lấy đỗ hơn 1 vạn người, nên hạ sắc chỉ cho thi khảo lại.[69]

Đến khi phúc hạch, có người không làm được bài phải bỏ quyển giấy trắng, bèn cho phép các quan đề điệu, giám thí, tuần xước, niêm phong quyển lại để hặc tâu, từ 1 đến 4, 5 người trở lên, thì viên quan Thừa chính và Hiến sát sẽ phải luận vào tội biếm chức hoặc bãi chức, phép tắc rất là nghiêm mật[70]

Thể lệ

Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):

  1. Có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
  2. Có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương. Đây là thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính thức. Đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu đầu xứ (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là ông xứ, như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.[71]

Cuộc thi được tổ chức tại các trường nhiều nơi (từ Hương do nghĩa khu vực quê hương của người thi). Nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng. Ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi, thí dụ trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Nam Định, trường Hà các tỉnh chung quanh Hà Nội v.v. Số thí sinh mỗi khoa có đến hàng nghìn người.[71]

Thể lệ thi Hương vào đời vua Lê Thái Tông (1434-1439), Lê Nhân Tông (1443-1453), người nào do sinh đồ mà đỗ Hương cống thì được sung vào Giám sinh, người nào đang là quân nhân mà đỗ Hương cống thì không được sung vào Giám sinh mà vẫn là Hương cống. Năm 1462, định thể lệ thi Hương, sĩ tử là sinh đồ hay quân nhân đều được dự vào thi Hương. Người nào trúng được 3 kỳ gọi là Sinh đồ; đến khoa sau lại vào thi, người nào trúng được 4 kỳ thi Hương gọi là Hương cống, mới được dự thi Hội. Về phần quan viên, chưa đỗ Hương cống cũng được phép dự thi Hội.[72]

Năm 1486, theo lời tâu của Lương Thế Vinh, hạ lệnh cho quan viên có học tập cử nghiệp, nếu làm qua ở Kinh, thì đến thi ở ti Thừa chính, trước hết phải qua kỳ sát hạch ở phủ huyện, theo như lệ của bách tính, rồi vào được vào thi Hội.[70]

Theo quy định từ năm 1434, thi Hương có 4 kỳ, gọi là bốn trường.

  • Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
  • Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
  • Kỳ III: thơ phú;
  • Kỳ IV: văn sách.

Thi qua 3 kỳ thì đỗ Tú Tài (trước 1828 gọi là Sinh đồ) - tên dân gian là ông Đồ, ông Tú. Thường mỗi khoa đỗ 72 người. Tuy có tiếng thi đỗ nhưng thường không được bổ dụng. Nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử nhân. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Tú", lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền".

Thi qua cả bốn kỳ thì đỗ Cử nhân (trước 1828 gọi là Hương cống) - ông Cống, ông Cử, được bổ dụng làm quan ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn.

Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên.

Khoa thi Hương đầu tiên năm 1396 đời Trần Thuận Tông, khoa thi Hương cuối cùng tổ chức năm 1918 đời vua Khải Định.

Thế kỷ 20

Dưới thời Pháp thuộc thì việc thi Hương có phần thay đổi. Kể từ khoa Kỷ Dậu 1909 thì nội dung là:

  1. Trường nhất: năm đạo văn sách
  2. Trường nhì: thi, phú
  3. Trường ba: hai bài luận chữ Quốc ngữ

Đó là năm đầu tiên chữ Quốc ngữ được dùng trong khoa cử.[73]

Khoa Nhâm Tý 1912 thì lại đổi nữa, bỏ phân thi phú. Nội dung là:

  1. Trường nhất: năm đạo văn sách
  2. Trường nhì: hai bài luận chữ Hán
  3. Trường ba: hai bài luận chữ Quốc ngữ
  4. Trường tư (phúc hạch): một bài văn sách, một bài luận Hán văn, và một bài luận Quốc ngữ.[73]